Khi được nuôi cấy tại môi trường ngoài cơ thể,phôi thường có nguy cơ bất thường trong quá trình phát triển. Có khoảng 60% phôi bất thường ở ngày 3 và khoảng 36% phôi bất thường ở ngày 5.Với sự phát triển của kỹ thuật chẩn đoán và sàng lọc di truyền chúng ta có thể phát hiện phôi bất thường về mặt di truyền trước khi chuyển chúng vào tử cung phụ nữ.
Quy trình Thụ tinh trong ống ống nghiệm (IVF_Invitro fertilization)
Một quy trình IVF cơ bản sẽ bao gồm 5 bước sau:
- Kích trứng: Bệnh nhân nữ sau khi khám lâm sàng sẽ được chỉ định liều lượng tiêm hoocmon kích thích buồng trứng Follicle Stimulating Hormone (FSH) và Lutenizing Hormone (LH).
- Thu nhận trứng: Sau 36 giờ kể từ thời điểm kích trứng, bệnh nhân sẽ được tiến hành "chọc trứng" để thu nhận trứng. Trước đó bác sĩ sẽ tiến hành siêu âm để kiểm tra số lượng nhằm đảm bảo lấy đủ số trứng ra khỏi buồng trứng của bệnh nhân.
- Thu nhận tinh trùng: Người chồng sẽ được khám và xét nghiệm lâm sàng mẫu tinh dịch sau đó sẽ lấy mẫu để các chuyên viên tiến hành lọc rửa mẫu.
- Nuôi cấy: sau khi có mẫu, các chuyên gia sẽ tiến hành thụ tinh bằng phương pháp đã được chỉ định trước (IVF, PZD, SUZI, ICSI)
- Chuyển phôi: phôi sẽ được chuyển vào ngày thứ 3, thứ 5 hoặc thứ 6 sau thụ tinh (tùy thuộc vào tình trạng của bệnh nhân và chỉ định của bác sĩ)
Tuy nhiên, trong quá trình nuôi cấy ngoài môi trường nhân tạo, phôi sẽ có những bất thường mang tính di truyền. Vì vậy, nhằm kiểm tra sự bất trường về mặt di truyên của phôi, kỹ thuật kiểm tra, chuẩn đoán và sàng lọc trước chuyển phôi đã được phát triển. Phôi sau khi thụ tinh sẽ được tiến hành sinh thiết lấy mẫu để làm kiểm tra sàng lọc, thời điểm lấy mẫu sẽ phụ thuộc vào mục đích kiểm tra.
Các kỹ thuật kiểm tra,chuẩn đoán và sàng lọc hiện nay
(theo CooperGenomic)
- Sàng lọc di truyền tiền cấy phôi (Pre-implantation Genatic Screening)
- Pre-implantation Genetic Aneuploidy (PGT_A): Kiểm tra đồng thời toàn bộ bộ nhiễm sắc thể của phôi vào ngày thứ 5 của quá trình phát triển bằng phương pháp NGS (giải trình tự thế hệ mới) trước khi phôi được chuyển vào tử cung.
Chu trình thực hiện PGT-A
Cơ chế phản ứng PGT_A
PGT-A hoạt động bằng cách xem xét số lượng vật liệu di truyền trong phôi IVF. Vật liệu di truyền này được đặt trong các cấu trúc gọi là nhiễm sắc thể. Nhiễm sắc thể rất quan trọng cho sự tăng trưởng và phát triển lành mạnh.
Phôi có số lượng nhiễm sắc thể không chính xác (còn gọi là phôi aneuploid) thường không mang thai thành công hoặc có thể dẫn đến việc sinh ra một đứa trẻ có tình trạng di truyền.
Phôi có số lượng nhiễm sắc thể chính xác (còn gọi là phôi euploid) có cơ hội tốt hơn dẫn đến mang thai thành công.
PGT-A xác định phôi có số lượng nhiễm sắc thể chính xác, vì vậy nhóm chăm sóc của bạn có thể chọn phôi có cơ hội tốt nhất dẫn đến thành công IVF.
Ai nên thực hiện kĩ thuật PGT-A
PGT-A phù hợp với đại đa số người trải qua IVF.
- Tất cả phụ nữ có nguy cơ sản xuất phôi bất thường nhiễm sắc thể.
- Khi phụ nữ có tuổi, khả năng phôi bất thường nhiễm sắc thể tăng đáng kể, bất kể số lượng phôi được sản xuất.
→PGT-A có thể giúp phụ nữ ở mọi lứa tuổi tăng cơ hội mang thai thành công.
Lợi ích của PGT-A
- Cơ hội mang thai cao hơn
- Giảm nguy cơ sảy thai
- Tự tin hơn trong việc chuyển một phôi thai, tránh các rủi ro về sức khỏe liên quan đến mang thai đôi hoặc sinh ba
- Giảm số chu kỳ IVF cần thiết để mang thai, có khả năng giảm thời gian mang thai và chi phí cho các chu kỳ thêm
Kết quả của PGT-A
Đối với mỗi phôi được thử nghiệm, kết quả PGT-A sẽ thuộc một trong ba loại: euploid, aneuploid hoặc khảm. Thông tin này có thể giúp lựa chọn phôi tốt nhất để chuyển.
- Harton et al. (2013) Diminished effect of maternal age on implantation after preimplantation genetic diagnosis with array comparative genomic hybridization. Fertil Steril.
- Fragouli et al. (2015) The developmental potential of mosaic embryos. Fertil Steril.
- Greco et al. (2015) Healthy Babies after Intrauterine Transfer of Mosaic Aneuploid Blastocysts. N Engl J Med.
2. Chẩn đoán di truyền tiền cấy phôi (Pre-implantation Genatic Diagnosis)
- Pre-implantation Genetic Monogenic (PGT_M): Đối với những người biết rằng họ có nguy cơ cao mắc phải một tình trạng di truyền cụ thể, PGT-M hoặc xét nghiệm di truyền tiền chuyển phôi cho các khiếm khuyết gen đơn/gen bị ảnh hưởng, có thể được thực hiện trước khi mang thai để giảm đáng kể nguy cơ sinh con bị bệnh di truyền.
Chu trình thực hiện PGT-M
Ai nên thực hiện kĩ thuật PGT-M
PGT-M thích hợp cho những người có nguy cơ cao mắc phải một rối loạn gen đơn lẻ cụ thể. Cặp vợ chồng có thể xem xét PGT-M nếu:
- Cặp vợ chồng là những người mang cùng điều kiện lặn tự phát (ví dụ: xơ nang)
- Vợ/chồng là người mang điều kiện liên kết X (ví dụ: Loạn dưỡng cơ Duchenne)
- Cặp vợ chồng có tình trạng thống trị tự phát (ví dụ: bệnh Huntington)
- Vợ/chồng có đột biến liên quan đến hội chứng ung thư di truyền (ví dụ: BRCA1 & 2)
- Cặp vợ chồng đã có một đứa con hoặc mang thai với một rối loạn gen duy nhất
- Vợ/chồng muốn thực hiện kết hợp HLA
Kỹ thuật PGT-M
Xét nghiệm PGT-M bao gồm kiểm tra chặt chẽ cả đột biến mà một cá thể mang và khu vực nhiễm sắc thể bao quanh nó, được hiển thị ở trên là đoạn màu của mỗi nhiễm sắc thể. Mỗi thiết kế thử nghiệm PGT-M là duy nhất và cụ thể cho gia đình, do đó, các mẫu DNA từ cả hai đối tác và thường là thành viên gia đình bổ sung sẽ được yêu cầu để thiết kế thử nghiệm. Sau đó, phân tích liên kết được sử dụng để xác định dấu vân tay di truyền học của đột biến và chẩn đoán từng phôi được thử nghiệm là bị ảnh hưởng hoặc không bị ảnh hưởng.